Thành tựu và tiềm lực

Trang chủ

Thành tựu và tiềm lực

I. NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH

1. Nghiên cứu cơ bản, bảo vệ và cải tạo về đất 

Viện đã chủ trì thực hiện nhiều công trình điều tra cơ bản, nghiên cứu cấp quốc gia về  đất, lập bản đồ đất tỷ lệ 1/500.000 cho miền Bắc Việt Nam, tham gia xây dựng bản đồ đất toàn quốc tỷ lệ 1/1.000.000. Xây dựng bản đồ đất, bản đồ nông hóa và cơ sở dữ liệu về đất ở các tỷ lệ nhỏ, trung bình và lớn, quy mô từ cấp vùng, cấp tỉnh, cấp huyện đến cấp xã. Đánh giá đất đai theo phương pháp của FAO cũng đã được áp dụng ở nhiều tỉnh trên cả nước. Đây là cơ sở khoa học cho việc quy hoạch sản xuất nông nghiệp, hình thành các vùng chuyên canh, bố trí cơ cấu cây trồng trong phạm vi toàn quốc

Áp dụng, chuyển đổi và hài hòa giữa các hệ thống phân loại đất theo trường phái của Nga, của Bộ Nông nghiệp Hoa kỳ (USDA - Soil Taxonomy) và FAO-UNESCO-WRB. Đây là công trình có ý nghĩa rất quan trọng, làm cho “ngôn ngữ” phân loại đất trở nên thuận lợi trong hội nhập quốc tế (trao đổi, cung cấp các thông tin về đất Việt Nam cho các chuyên gia và các nhà đầu tư quốc tế về nông nghiệp).

Các kết quả nghiên cứu về quá trình ô xy hóa khử trong đất trồng lúa, nguồn gốc phát sinh và phân loại đất phèn Việt Nam, đặc biệt ở đồng bằng sông Cửu Long, các nghiên cứu cơ bản về đất vùng Tây Nguyên, vùng đồng bằng sông Hồng, đất cát ven biển, đất mặn, đất xám bạc màu, các loại đất vùng đồi núi… Công trình nghiên cứu này làm căn cứ đề xuất sử dụng đất hiệu quả, đảm bảo cho việc khai thác tài nguyên đất khoa học và bền vững, tăng năng suất cây trồng từ 1,5-2 lần

Một số công trình tiêu biểu về lĩnh vực đất Viện đã chủ trì và tham gia

- Chương trình 02-11: “Xây dựng và áp dụng các biện pháp nâng cao độ màu mỡ của đất, sử dụng có hiệu quả đất, phân bón theo các vùng trong toàn quốc”.

- Chương trình 02-15: “Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật trong khai hoang và chống xói mòn đất mới khai hoang”.”. 

- Chương trình thâm canh lúa cao sản vùng đồng bằng sông Cửu Long ; Tham gia chương trình “Điều tra tổng hợp vùng Tây Nguyên giai đoạn 1 và 2”; Tổ chức thực hiện các đề tài về đất và phân bón thuộc chương trình Lương thực thực phẩm (02A và HN-01). Các chương trình, đề tài trên đều được nghiệm thu đánh giá xuất sắc, tốt và khá, và góp công lớn trong phát triển sản xuất nông nghiệp của cả nước

- Đề tài cấp Nhà nước KHCN 08 - 07 “Nghiên cứu quy trình công nghệ sử dụng và bảo vệ đất dốc cho sản xuất nông lâm nghiệp”. Đây là đề tài đã xác định được thực trạng về độ phì nhiêu, các yếu tố hạn chế của đất trong sản xuất nông lâm nghiệp và đề xuất hướng sử dụng những vùng đất dốc ở nước ta đến năm 2010. Đề tài đã đánh giá được ảnh hưởng của các phương thức sử dụng đất, phương thức canh tác đến tính chất đất và khẳng định đối với vùng đất dốc, phương thức nông lâm kết hợp là hiệu quả nhất và bảo đảm sử dụng đất bền vững nhất. Hệ thống hóa được các biện pháp chính chống xói mòn, cải tạo, sử dụng và bảo vệ trong quy trình công nghệ sử dụng đất. Các kết quả nghiên cứu đã được kiểm chứng thông qua 20 mô hình ở 18 tỉnh miền núi, rút ra được hiệu quả của mô hình so với phương pháp canh tác truyền thống của nông dân địa phương

- Viện đã tiến hành thực hiện nghiên cứu thực trạng đất phèn và đất mặn ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và đồng bằng sông Hồng (ĐBSH) sau 30 năm khai thác sử dụng; nghiên cứu các yếu tố hạn chế trong đất trồng lúa tại vùng ĐBSH và ĐBSCL, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất lúa tại 2 vùng; Năm 2009 - 2012, Viện đã tiến hành xác định thực trạng về số lượng và chất lượng của đất xám bạc màu (XBM) miền Bắc Việt Nam.Căn cứ từ các nghiên cuwus này Viện đã xây dựng được các giải pháp khoa học công nghệ để sử dụng có hiệu quả đất tại các vùng

- Đề tài độc lập cấp Nhà nước “Nghiên cứu nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đất nông nghiệp vùng miền núi Tây Bắc Việt Nam”. Từ đề tài này  Viện đã xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu về thực trạng số lượng, chất lượng đất cho các tỉnh vùng miền núi Tây Bắc; và Xây dựng được các giải pháp khoa học công nghệ (đất, phân bón, sinh học) nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất theo hướng bền vững cho một số cây trồng chính cho các tỉnh vùng miền núi Tây Bắc

- Xây dựng được Trung tâm Thông tin Tư liệu đất Việt Nam với 68 phẫu diện đất nguyên khối (Soil monoliths) đặc trưng cho các loại đất chính của nước ta. Hiệu quả: cung cấp thông tin tư liệu trực quan về đất phục vụ nghiên cứu và học tập. Hàng năm đón từ 300-500 sinh viên, 20-30 đoàn khách trong và ngoài nước. 

- Ứng dụng CNTT số hóa, biên tập, phân tích không gian để lập bản đồ, đánh giá đất và thoái hóa đất đai 

 

1.2. Nghiên cứu về lĩnh vực phân bón và dinh dưỡng cây trồng
Một trong những hướng nghiên cứu được chú trọng trong giai đoạn từ năm 2000 đến nay là sử dụng phế phụ phẩm nông nghiệp làm nguồn dinh dưỡng hữu cơ tại chỗ, vừa tăng năng suất cây trồng, cải tạo tính chất đất, giảm lượng phân khoáng bón vào đất và thân thiện với môi trường. Kết quả nghiên cứu dài hạn (13 năm) liên tục vùi  phế phụ phẩm, năng suất lúa, ngô và đậu tương trên đất bạc màu Bắc Giang tăng từ 10-14%, đồng thời vùi phế phụ phẩm đã làm tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng khoáng và bổ sung kali cho loại đất này. Dùng phế phụ phẩm nông nghiệp (rơm rạ, thân lá ngô, lá mía, vỏ trấu cà phê) vùi kết hợp phun chế phẩm vi sinh vật đã giảm được lượng N đến 20% và K đến 30% mà vẫn tăng năng suất cây trồng (lúa, ngô, mía, cà phê) từ 10-21%, đồng thời cải thiện được chất lượng đất.
Nghiên cứu chế tạo phân bón chức năng, chuyên dùng cho cây trồng (sử dụng các nguồn hữu cơ giàu chất dinh dưỡng như vỏ cà phê, than bùn, phế thải từ chế biến thủy sản, giết mổ gia súc, rong biển,...) đã chế tạo thành công 6 bộ phân sinh học dạng rắn bón gốc và 9 bộ phân bón chức năng dạng lỏng phun lá phù hợp với từng nhóm cây trồng: i) Bón phân sinh học làm tăng năng suất chè, cà phê và tiêu từ 12-20%; tăng năng suất cà chua, bắp cải và đậu tương từ 15-20%. ii) Phun phân chức năng đã làm tăng năng suất cà chua 17-18%, cà phê chè 19-28%, cà phê vối 14-20%, điều 47-55%; năng suất chè tăng 11-30%, tăng hàm lượng axit amin và giảm hàm lượng tanin làm chè có hậu vị tốt; iii) Phân chức năng làm tăng khả năng đậu quả và tăng số quả hữu hiệu (30%), trọng lượng quả (21-31%) và tăng hàm lượng đường trong bưởi Phúc Trạch; iv) Sử dụng phân bón hữu cơ vi sinh đa chức năng đặc chủng cho cây cao su vùng Tây Bắc, ảnh hưởng tốt đến quá trình sinh trưởng, phát triển, năng suất mủ cao su.
Các dự án sản xuất thử nghiệm đã góp phần hoàn chỉnh quy trình sản xuất và cho ra đời một số loại phân bón và chế phẩm nông hóa, được thị trường chấp nhận. Trong hơn 10 năm qua, Trung tâm Nghiên cứu Phân bón và Dinh dưỡng cây trồng đã sản xuất được phân bón lá A2, A4, Amin, RQ, CQ dùng cho rau, hoa và cây cảnh; giá thể dinh dưỡng GT05 ươm giống cây lâm nghiệp (bạch đàn, keo, thông) và cây ăn quả (xoài, nhãn, bưởi) theo hướng công nghiệp và đã chuyển giao cho các doanh nghiệp sản xuất phân bón với quy mô hàng ngàn tấn/năm. Ngoài ra, Viện cũng nghiên cứu và phát triển một số loại phân bón đặc chủng từ các công ty nước ngoài, trong đó có phân bón đa lượng thế kỷ KOM, phân bón trung vi lượng NUMIC, các loại phân bón này đã được người dân ứng dụng rộng rải, đặc biệt là vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ.
Nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng phân bón thế hệ mới cho một số cây trồng chính; Đã chế tạo thành công 3 loại: than sinh học từ mụn dừa, vỏ trấu, cà phê bằng phương pháp đốt;  Sử dụng các nguồn nguyên liệu trên để tạo sản phẩm phân hữu cơ khoáng chuyên dùng cho lúa, ngô và rau. Số lượng đạt được là 03 sản phẩm; Đã tổng hợp được 10 sản phẩm hydroxit lớp kép có khả năng hấp phụ dinh dưỡng cây trồng dạng anion; Đánh giá tính chất lý hóa và cấu trúc của sản phẩm; Lựa chọn được 2 sản phẩm có khả năng sử dụng làm phân khoáng phân giải chậm. Phân lân nhả chậm sản xuất thử từ hydroxit lớp kép có hàm lượng P = 21% hay hàm lượng  P2O5 = 48%; có khả năng sử dụng như một nguồn dinh dưỡng lân cho cây trồng.

Nghiên cứu tính chất của đất hiếm, than bùn để ứng dụng trong việc cải tạo đất và sản xuất phân bón hữu cơ đã thu được nhiều kết quả tốt; đã xác định được thành phần các hợp chất hữu cơ trong than bùn, vật liệu mùn để sử dụng trong sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh. Từ kết quả đánh giá về trữ lượng và chất lượng than bùn ở trong nước và ở Lào, Viện đã nghiên cứu đề xuất nhiều quy trình sản xuất phân bón hữu cơ vinh chất lượng cao cho các cây trồng khác nhau. Ngoài ra, Viện đã nghiên cứu ứng dụng bentonit để  cải tạo đất và nâng cao hiệu quả phân bón, kết quả đã mở ra một triển vọng lớn trong việc cải tạo các vùng đất có thành phần cơ giới nhẹ, giữ nước và cung cấp dinh dưỡng kém góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng cho các vùng đất nghèo dinh dưỡng này. 


Về quản lý dinh dưỡng cây trồng: đã xây dựng được quy trình nuôi trồng phong lan, địa lan trên hệ thống thủy canh hoàn lưu phù hợp với sản xuất hàng hóa qui mô vừa và lớn. Nuôi trồng 12 tháng đối với phong lan đã làm tăng số nhánh 36%, đường kính nhánh 14%, số hoa/khóm 190% so với đối chứng; các chỉ số này ở địa lan theo thứ tự là 133, 18 và 61%. Quy trình quản lý dinh dưỡng cho cà chua và dưa chuột trong nhà lưới theo hướng sản xuất nông nghiệp công nghệ cao đảm bảo năng suất cà chua bi đạt 110 tấn /ha/vụ và dưa chuột 112 tấn /ha/vụ.
Nghiên cứu quản lý tổng hợp đối với lúa, sử dụng biện pháp tưới khô ngập xen kẽ thay thế cho tưới ngập thường xuyên và bón phân theo bảng so màu lá lúa đã tiết kiệm nước tưới và phân bón mà vẫn cho năng suất lúa tăng trên 10% ở cả 3 vùng ĐB Sông Cửu Long, ĐB Sông Hồng và Duyên hải Nam Trung bộ. Nghiên cứu quản lý dinh dưỡng cho ngô theo vùng đặc thù trên đất đỏ đá vôi (Mai Sơn - Sơn La), đất phù sa sông Hồng (Đan Phượng - Hà Nội), đất bạc màu (Hiệp Hòa - Bắc Giang, Thanh Vân và Tam Dương - Vĩnh Phúc) đã giảm được lượng đạm bón 30-40 kg/ha mà vẫn tăng năng suất ngô (trên 80% diện tích nghiên cứu) so với canh tác của nông dân và tiệm cận với năng suất tiềm năng. Quy trình sử dụng phân bón phù hợp cho mía ở huyện Tân Kỳ, Nghệ An đã làm tăng năng suất 20-30% so với bình quân chung của huyện, trữ lượng đường tăng từ 9,5-10,5% lên 11-12%. Quy trình bón phân cân đối và an toàn cho 8 cây trồng và hệ thống cây trồng truyền thống của tỉnh Đồng Nai: lúa-ngô, ngô-đậu, ngô-bông, rau, sầu riêng, bưởi, điều được tỉnh đánh giá cao và khuyến cáo sử dụng. Biện pháp cải thiện chất hữu cơ kết hợp sử dụng phân bón hợp lý đã làm tăng năng suất lạc trên đất cát khô hạn từ 25 đến 150%. Quy trình bón phân và mật độ gieo thích hợp đối với lúa chịu hạn Đắc Lắk; quy trình phát triển cà phê vối bền vững cũng đã góp phần nâng cao năng suất cây trồng.
Hướng nghiên cứu cơ bản về sử dụng phân bón và dinh dưỡng cây trồng trong giai đoạn này tiếp tục được chú trọng. Một số cây trồng có giá trị hàng hóa cao như: Chè trồng trên đất phiến thạch sét, đậu tương trên đất xám bạc màu, lạc trên đất cát biển đều có biểu hiện thiếu hụt các nguyên tố trung-vi lượng như: Ca, Mg, S, Cu, Mo, Zn, Mn và B. Việc bổ sung các nguyên tố dinh dưỡng trung-vi lượng ở tỷ lệ hợp lý đã làm tăng năng suất cây trồng từ 9-27% (tùy loại nguyên tố và loại cây trồng khác nhau), đồng thời làm tăng hiệu quả sử dụng NPK và tăng chất lượng nông sản. Thí nghiệm ảnh hưởng dài hạn của phân bón đến năng suất cây trồng trên đất bạc màu Bắc Giang đã xác định được các yếu tố hạn chế cụ thể cho từng cây trồng ở các mùa vụ khác nhau. Nghiên cứu và xác định được nguyên nhân gây nên hiện tượng vàng lá lúa tại Bắc Ninh có liên quan đến sự thiếu hụt Mg trong đất do đó khả năng oxy hóa của hệ rễ giảm làm hệ rễ và cây bị ngộ độc sắt; từ nguyên nhân này đã đề xuất các giải pháp khắc phục có hiệu quả.

Đã thử nghiệm và áp dụng thành công mô hình ứng dụng công nghệ thông tin tính toán dự báo lượng phân bón cần thiết hàng năm cho một số cây trồng chính ở Đồng Nai ở quy mô cấp nông hộ, cấp xã, cấp huyện và cấp tỉnh. Thiết kế phần mềm dưới dạng web, tích hợp các thông số về đất, nhu cầu dinh dưỡng của cây trồng, khả năng mất dinh dưỡng do xói mòn/rửa trôi và một số thông số khác, giúp người dân có thể tự tính toán nhu cầu phân bón đa lượng hàng năm cho cây trồng trên mảnh đất của mình. Đồng thời cũng giúp các cơ quan quản lý chủ động trong việc lập kế hoạch nhu cầu phân bón hàng năm cho các loại cây trồng của tỉnh như ở Bắc Ninh, Thanh Hóa.

Trong hơn 10 năm qua, các đơn vị trực thuộc Viện đã tiến hành kiểm định hàng nghìn mẫu phân bón, khảo nghiệm và đưa vào Danh mục các loại phân bón được phép lưu hành ở Việt nam của Bộ Nông nghiệp và PTNT hơn 900 sản phẩm phân bón mới các loại.

Trung tâm Thông tin Tư liệu Phân bón thường xuyên được cập nhật. Hiện nay đã thu thập, lưu giữ và trưng bày trên 1000 sản phẩm phân bón có nguồn gốc nhập khẩu và sản xuất trong nước. Các mẫu thu thập được dán nhãn/mác bằng tiếng Việt và tiếng Anh về xuất xứ mẫu và nơi sản xuất để dễ tra cứu.

1.4. Nghiên cứu về lĩnh vực vi sinh vật nông nghiệp
Trong giai đoạn này, nhiều nghiên cứu tập trung vào việc phân lập, lựa chọn các chủng vi sinh vật (VSV) đối kháng với vi sinh vật gây bệnh ở cây trồng để tạo ra các chế phẩm vừa có tác dụng phòng trừ bệnh vừa kích thích sinh trưởng của cây. Chế phẩm VSV đối kháng bệnh héo xanh lạc và vừng làm giảm tỷ lệ bị bệnh 60%, tăng năng suất và tăng hiệu quả kinh tế so với đối chứng. Chế phẩm VSV dùng cho cây ớt có tác dụng giảm tỷ lệ bệnh héo rũ 40-50%, bệnh thối quả 20-30%; đồng thời giảm được 20% lượng phân bón N, P mà năng suất vẫn tăng 6% và lợi nhuận tăng 11-17 triệu đồng/ha. Chế phẩm phòng trừ tuyến trùng, nấm bệnh vùng rễ cà phê và hồ tiêu có tác dụng tăng đường kính tán, giảm bệnh vàng rụng lá, tăng mật độ vi sinh vật có ích và giảm 17- 67% số lượng tuyến trùng Pratylenchus sp. trong đất. Sử dụng 1 tấn phân hữu cơ VSV chức năng có thể thay thế được 10 tấn phân chuồng và có tác dụng giảm bệnh héo xanh vi khuẩn trên lạc, cà chua, khoai tây 37-78%, giảm tỷ lệ bệnh vùng rễ cây hồ tiêu 25-34%, đồng thời tăng năng suất 10-20% đối với đậu tương, lạc, cà chua, khoai tây, rau, lúa, hồ tiêu, cà phê và bông. Sử dụng chế phẩm cố định đạm trên cây đậu tương và lạc có thể thay thế được 75% lượng N mà vẫn tăng năng suất 20-35% đối với đậu tương và 13-26% đối với lạc. Bón phân vi sinh và 100% lượng phân khoáng NPK đã làm tăng năng suất ngô 13- 22% so với đối chứng không sử dụng phân vi sinh vật; khi bón phân vi sinh vật và giảm 20% lượng phân khoáng NPK cho năng suất tăng 7- 9% so đối chứng. Đến nay, Viện đã nghiên cứu và phát triển vào sản xuất 10 sản phẩm phân bón VSV, 1 chế phẩm VSV phân giải hữu cơ. Tuỳ theo công nghệ, sản phẩm phân bón VSV có thể được sản xuất ở dạng bột hoặc lỏng để phục vụ sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam là Lào.
Đối với cây trồng dài ngày, nhiều nghiên cứu tập trung tuyển chọn các chủng vi sinh vật hữu ích để sản xuất phân bón chức năng cho chè, cao su, cà phê. Đối với cây chè tại Yên Bái, bước đầu đã tuyển chọn được các chủng vi khuẩn Azotobacter có khả năng sinh IAA cao và có khả năng hòa tan P2O5 trong môi trường dịch thể. Đây là các chủng vi sinh vật tiềm năng thích hợp với điều kiện đất trồng chè Yên Bái, cũng như sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh cho cây chè tại Yên Bái. Đối với cây cao su, đã xác định được thành phần môi trường và các thông số kỹ thuật phù hợp cho lên men nhân sinh khối các chủng vi sinh vật chức năng: phân giải xenlulo, cố định nitơ tự do, phân giải lân, kích thích sinh trưởng, sinh polysaccarit, các VSV có hoạt tính đối kháng với VSV gây bệnh... để sản xuất phân hữu cơ vi sinh cho cây cao su ở các thời kỳ sinh trưởng khác nhau, vùng Tây Bắc Việt Nam. Đối với cây cà phê, phân lập được một số chủng VSV có thể sử dụng trong sản xuất chế phẩm vi sinh vật có khả năng làm tăng mật độ vi sinh vật có ích, giảm mật độ tuyến trùng gây hại trong đất và không ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng, phát triển của cây cà phê. 
Nghiên cứu sử dụng chế phẩm vi sinh vật nhằm cải tạo đất bạc màu cũng được quan tâm; đã tuyển chọn được ba tổ hợp với chín chủng vi sinh vật bản địa để sản xuất chế phẩm vi sinh vật cải tạo đất bạc màu. Sử dụng các chế phẩm kết hợp cây phủ trên đất luân kỳ sau trồng bạch đàn tại Bắc Giang, đất trống đồi trọc tại Phú Thọ và đất cát biển (vùng trồng điều) tại Bình Định cho thấy các chỉ tiêu sinh hóa đất có xu thế thay đổi theo chiều hướng làm tăng độ phì của đất, tăng mật độ vi sinh vật có ích trong đất khoảng 10-20 lần, tăng độ ẩm đất 25-85%, tăng sinh trưởng, phát triển của cây trồng 16-32%, tăng năng suất cây trồng 17-24% và tăng thu nhập 2,5-10,5 triệu đồng/ha/năm.
Sử dụng VSV để xử môi trường là hướng nghiên cứu quan trọng trong thời gian qua. Chế phẩm vi sinh vật xử lý phế thải chăn nuôi dạng rắn và dạng lỏng có hiệu quả tốt ở các cơ sở chăn nuôi lợn, gà quy mô lớn: làm mất mùi hôi và tiêu diệt các VSV có hại như Coliform, Salmonella, làm hỏng trứng giun, sán; sau khi xử lý, phế thải được sử dụng làm phân bón thay thế cho phân chuồng có thể tiết kiệm được 25% lượng phân N, P cần bón mà không ảnh hưởng đến năng suất; chế phẩm đạt TCVN 7185:2002. Tuyển chọn các VSV có khả năng chuyển hóa và hấp thu kim loại nặng (Zn, Cu, Pb) và sử dụng phối hợp với các cây trồng như ngổ dại, dừa nước, mương đứng... để xử lý đất nông nghiệp bị ô nhiễm đạt hiệu quả rất tốt.
Công tác bảo tồn quỹ gen VSV trồng trọt được tiến hành thường xuyên. Hiện nay đã thu thập và lưu giữ được gần 700 nguồn gen VSV thuộc 30 họ vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn, nấm men. Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng cho việc nghiên cứu phát triển các sản phẩm VSV sử dụng trong sản xuất nông nghiệp. Từng bước đánh giá và xác định hoạt tính sinh học của VSV; hoàn thiện và cập nhập các thông tin theo mẫu qui định và lưu giữ trong máy tính; đã cung cấp hàng trăm lượt chủng giống vi sinh vật cho các đơn vị nghiên cứu và sản xuất trong cả nước. Bên cạnh việc bảo tồn, đã tiến hành nghiên cứu ứng dụng phương pháp ADN tái tổ hợp và đột biến nhằm tăng cường hoạt tính sinh học theo chiều hướng có lợi của các chủng VSV hiện có. Hàng năm, quỹ gen VSV bổ sung 30-50 chủng giống VSV mới từ các nguồn phân lập khác nhau, trong đó có cả nguồn nhập nội từ các dự án hợp tác quốc tế.
 
1.5. Các tiến bộ kỹ thuật, quy trình công nghệ và hoạt động chuyển giao.
Hàng năm, từ các đề tài nghiên cứu các cấp và các dự án sản xuất thử nghiệm, các đơn vị nghiên cứu trong Viện đã xây dựng thành công nhiều quy trình công nghệ, nhiều loại phân bón và được Bộ Nông nghiệp và PTNN công nhận là tiến bộ kỹ thuật mới. Các tiến bộ kỹ thuật, các quy trình công nghệ được đổi mới và bổ sung thường xuyên để phù hợp với nhu cầu thực tế của mỗi loại cây trồng, mỗi vùng đặc thù. Kể từ năm 2000 đến nay đã có hơn 30 tiến bộ kỹ thuật và quy trình công nghệ được công nhận.
Trong giai đoạn này, các đơn vị trực thuộc Viện đã chuyển giao nhiều tiến bộ kỹ thuật cho các địa phương. Xây dựng mô hình sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh vật từ phế phụ phẩm nông nghiệp, sản phẩm phân bón đạt TCVN và chuyển giao cho Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ KHCN - Sở KHCN Nghệ An. Công nghệ sử dụng men ủ vi sinh để xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp sản xuất phân bón hữu cơ chuyển giao cho Trung tâm Ứng dụng Tiến bộ KHCN - Sở KHCH Đăk Lăk. Chuyển giao các loại phân bón hữu cơ khoáng, phân bón vi sinh vật, chế phẩm vi sinh vật cho các đơn vị như Công ty Thương mại và Hoá sinh Thiên Sinh, Công ty TNHH Bình Dương, Công ty Thương mại Cổ phần Thiên Phúc, Công ty Cổ phần Việt Á Nghĩa Đàn, Công ty TNHH Công nghệ xanh Quốc An, Tổng Công ty cổ phần vật tư nông nghiệp Nghệ An....
Xây dựng và tham gia xây dựng tiêu chuẩn ngành cũng như Tiêu chuẩn Việt Nam được Viện thực hiện thường xuyên, liên tục trong hơn 10 năm qua. Cụ thể: đã xây dựng 19 Tiêu chuẩn Ngành về phân tích phân bón vô cơ, 12 Tiêu chuẩn Ngành về phân bón vi sinh vật; Biên soạn và hiệu chỉnh 11 Tiêu chuẩn Việt Nam; Tham gia biên soạn và hiệu chỉnh 12 Tiêu chuẩn Ngành về chất lượng môi trường đất và 7 Tiêu chuẩn Việt Nam. Hàng năm, Viện tiếp tục xây dựng bổ sung và đề nghị ban hành 3-6 Tiêu chuẩn Việt Nam về phân tích đất, phân bón và vi sinh vật.
Phối hợp với đài truyền hình Việt Nam, đài truyền hình các tỉnh, đài tiếng nói Việt Nam... nhiều chương trình phổ biến kiến thức, kỹ thuật, v.v... đã được thực hiện và góp phần không nhỏ trong quá trình chuyển giao TBKT vào sản xuất tại các địa phương trong cả nước.
 
1.6. Hoạt động hợp với các tổ chức, doanh nghiêp trong nước và Quốc tế.
Phát huy truyền thống của Viện ở các giai đoạn trước, trong giai đoạn này, công tác hợp tác với các tổ chức, doanh nghiêp trong nước và Quốc tế vẫn được duy trì và đẩy mạnh nên đã góp phần quan trọng trong việc tăng cường trang thiết bị, đào tạo cán bộ, hỗ trợ kinh phí cho nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ về sử dụng đất, phân bón, sinh học vào sản xuất nông lâm nghiệp ở nước ta. 
Viện Thổ nhưỡng Nông hoá có quan hệ hợp tác rộng rãi với các Viện Nghiên cứu, Trường Đại học, doanh nghiệp của các nước như: Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch, Bỉ, Hà Lan, Thụy Điển, Úc, Trung Quốc, Lào, Philipines, Pakistan, Sudan... và với các Tổ chức quốc tế như: IRRI, IWMI, AuSAID, IPNI, DANIDA, AIC, CIDA, EU, ACIAR, CIAT, IRD, ICRICAT, FFTC... về lĩnh vực nghiên cứu đất, phân bón, cây trồng và vi sinh vật. Trong những năm gần đây Viện đã có những hoạt động HTQT nỗi bật trên nhiều lĩnh vực như:  Quản lý, bảo vệ và phát triển nông nghiệp bền vững trên đất dốc (Đối tác: ASIALAND - Sloping Land Network for ASIA); Cải thiện việc sản xuất lương thực, thực phẩm trên đất nghèo dinh dưỡng ở vùng ven biển miền Trung-Việt Nam (Đối tác: Trường Đại học Nông nghiệp Gembloux, Vương quốc Bỉ); Tái sử dụng nước thải đô thị để phục vụ tưới nông nghiệp (Đối tác: Đại học Nông nghiệp và Thú y Hoàng gia Đan Mạch); Quản lý lưu vực để sản xuất nông lâm nghiệp bền vững (Đối tác: IWMI); Đẩy mạnh phát triển chăn nuôi trong hệ thống nông nghiệp vùng cao (Đối tác: IRD và Cơ quan Nông nghiệp Pháp - Agropolis); Hệ thống nghiên cứu kết hợp quản lý tài nguyên và phân tích sử dụng đất ở Nam và Đông Nam Á (Đối tác: EU); Phát triển và chuyển giao công nghệ quản lý dinh dưỡng theo vùng đặc thù cho lúa, ngô (Đối tác: IRRI, PPI/PPIC-IPNI); Nghiên cứu bền vững canh tác nông nghiệp ngoại thành trong các hệ thống nông trại nhỏ ven nội ở Trung Quốc và Việt Nam (Đối tác: Uppsala-Sweden); Phát triển phân bón sinh học thân thiện với môi trường, có hiệu quả cao: từng bước hướng tới nền nông nghiệp bền vững (Đối tác: Hội đồng Anh và Tổ chức Hợp tác Phát triển (DFID) của Vương Quốc Anh); Quản lý phân bón để nâng cao hiệu quả sản xuất cho cây lúa và độ phì nhiêu đất ở vùng đồi núi Miền Bắc Việt Nam (Đối tác: Tổ chức sáng kiến hợp tác nông nghiệp lương thực Châu Á, Hàn quốc); Xây dựng hệ thống sản xuất - kinh doanh rau bền vững, hiệu quả ở khu vực Tây Bắc Việt Nam (Đối tác: Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Úc); Nghiên cứu cơ chế chia sẻ lợi ích cho bảo vệ và quản lý nguồn nước (Đối tác: Viện quản lý nước quốc tế, pháp); Quản lý cân bằng dinh dưỡng Kali cho các cây trồng vải, cam, hồ tiêu, mía, cà phê (Đối tác Viện Kali quốc tế, Công ty Uralkali và Belarusian, Singapore).
Thực hiện hợp tác song phương và theo Nghị định Thư giữa các chính phủ, từ năm 2000 đến nay Viện đã thực hiện các chương trình hợp tác với các tỉnh tại CHDCND Lào để đánh giá đất đai và quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp cho các tỉnh; chuyển giao tiến bộ kỹ thuật nhằm nâng cao nâng suất cây trồng cho tỉnh Sayaboury, CHDCND Lào; thực hiện Nhiệm vụ theo Nghị định thư với Lào về việc chuyển giao công nghệ sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh và xây dựng phòng thí nghiệm vi sinh và xưởng sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh cho Lào.
Về hợp tác với các doanh nghiệp trong nước, trong những năm trở lại đây việc hợp tác nghiên cứu, khảo nghiệm và chuyển giao quy trình, công nghệ với các doanh nghiệp được đẩy mạnh; hợp tác với Công ty cổ phần đầu tư và phát triển nông nghiệp Cánh đồng vàng trong việc khảo nghiệm sản phẩm NEB 26 của Hoa Kỳ và hoàn thiện quy trình sản xuất phân bón Đạm xanh; Hợp tác với Công ty Vedan Việt Nam và Tổng Công ty cổ phần vật tư nông nghiệp Nghệ An để nghiên cứu bổ sung γ-PGA phân bón NPK để tăng cường hiệu quả sử dụng phân bón; Viện đã và đang hợp tác chặt chẽ với các doanh nghiệp: Công ty cổ phần Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao; Công ty TNHH một thành viên Quế Lâm Phương Bắc, Công ty cổ phần Công nông nghiệp Tiến Nông,... để triển khai các sản phẩm phân bón thế hệ mới, chất lượng cao phục vụ cho sản xuất.
Thông qua các chương trình hợp tác, Viện đã tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ cán bộ của đơn vị học tập nâng cao trình độ. Cán bộ khoa học có điều kiện tiếp cận nhanh với công nghệ mới. Nhiều lượt cán bộ được đào tạo bậc Thạc sĩ, Tiến sĩ, sau Tiến sỹ; được tập huấn ngắn hạn, dự hội nghị, hội thảo quốc tế từ những chương trình hợp tác này, giúp cán bộ nghiên cứu của đơn vị không chỉ cải thiện được phương pháp luận, tư duy mới trong nghiên cứu mà còn tạo điều kiện để mở rộng thêm các mối quan hệ trong hợp tác nghiên cứu. 

 

II. THÀNH TÍCH 
Chặng đường 50 năm với nhiều mốc phát triển, Viện TNNH đã được ghi nhận là một đơn vị nghiên cứu mạnh hàng đầu của ngành trong lĩnh vực đất, phân bón với nhiều nhà khoa học tên tuổi cùng các công trình nghiên cứu tầm quốc gia và quốc tế. Với những đóng góp đó, Viện đã được Đảng và Nhà Nước trao tặng: 

- Huân chương Lao động Hạng Ba năm 1981

- Huân chương Lao động Hạng Nhì năm 1985

- Huân chương Lao động Hạng Nhất năm 1999

- Huân chương Độc lập Hạng Ba năm 2009 

Một số công trình nghiên cứu được trao các giải thưởng như:

- Giải thưởng Nhà nước năm 1983 và Giải thưởng HCM về KHCN năm 2000 cho công trình điều tra phân loại bản đồ đất VN

- Giải thưởng HCM về KHCN năm 2005 cho cụm công trình atlas quốc gia

- Giải thưởng bông lúa vàng cho tập thể và giải thưởng Kovalepxkaia cho cá nhân và nhiều phần thưởng cao quý khác

Với những đóng góp thiết thực cho sản xuất nông nghiệp cho nước bạn Lào, Viện TNNH đã được nhà nước Lào tặng Huân chương lao động Hạng nhất cho tập thể và nhiều huân huy chương cho các cá nhân